NHÀ THỜ HỌ THÁI KHẮC ĐẠI TÔN, XÃ THỊNH SƠN, HUYỆN ĐÔ LƯƠNG

17:07 13/02/2025

1. Khái quát về giá trị nhà thờ họ Thái Khắc:

Theo gia phả của dòng họ Thái Khắc làng Hội Tâm, xã Thịnh Sơn: Nhà thờ họ Thái Khắc đại tôn xã Thịnh Sơn là nơi thờ tự thủy tổ và các nhân vật cuả họ Thái Khắc gốc Mạc. Qua những tài liệu như gia phả, sắc phong còn lưu giữ tại nhà thờ, giúp chúng ta hiểu được cống hiến, công lao, sự nghiệp của các bậc tiền nhân trong dòng họ Thái Khắc làng Hội Tâm, xã Thịnh Sơn trong đó có những nhân vật có công với dân, với nước như ông Thái Khắc Mao, Thái Khắc Oánh, Thái Khắc Quynh....

Các nhân vật được thờ tại đây sống ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, bối cảnh xã hội khác nhau. Vì vậy, tìm hiểu về các nhân vật này, hậu thế không chỉ hiểu thêm về cuộc đời và sự nghiệp của các bậc tiên tổ mà còn hiểu thêm về các giai đoạn lịch sử đương thời, về ý thức hệ tư tưởng phong kiến, khái niệm trung quân, ái quốc…

Đây cũng là nơi hội họp của chi bộ Hội Tâm năm 1930 – 1931, là nơi sơ tán của các cơ quan Đảng và Nhà nước trong những năm chống Pháp, chống Mỹ.

Nhà thờ họ Thái Khắc đại tôn là công trình văn hóa tâm linh được khởi dựng cách đây hàng trăm năm. Sự tồn tại của di tích gắn liền với bao thăng trầm lịch sử xã Thịnh Sơn cũng như lịch sử huyện Đô Lương. Nhà thờ họ Thái Khắc đại tôn là kết quả của quá trình xây dựng và phát triển một dòng họ cũng như phát triển của một làng xã. Thông qua lịch sử xây dựng di tích, chúng ta hiểu thêm về quá trình hình thành và phát triển làng xã trên mảnh đất Đô Lương.

Tại nhà thờ còn lưu giữ nhiều hiện vật quý như sắc phong, câu đối, hoành phi, long ngai bài vị… là nguồn tư liệu quý không chỉ giúp hậu thế tìm hiểu về nhân vật, về sự hình thành một dòng họ  mà còn hiểu thêm về đời sống sinh hoạt, kinh tế, chính sách của xã hội đương thời và chính của làng quê Hội Tâm lúc bấy giờ.

Nhà thờ họ Thái Khắc đại tôn xã Thịnh Sơn còn là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh, nơi cố kết tình cảm bền chặt của con cháu trong dòng họ. Giá trị văn hóa được thể hiện thông qua hoạt động của hậu duệ hướng về tiên tổ, những người không chỉ có công đặt nền móng cho sự phát triển của một trong những dòng họ tiêu biểu ở Đô Lương mà còn góp phần tạo nên sự hưng thịnh cho một vùng đất. Tại di tích, hàng năm diễn ra nhiều hoạt động văn hóa tâm linh, tiêu biểu là lễ tế tổ vào ngày 14,15,16 tháng Giêng âm lịch. Đây là những hoạt động văn hóa tâm linh, ý nghĩa, ngoài việc thể hiện sự quan tâm của con cháu, nhằm tôn vinh, tưởng nhớ công lao của các bậc tiền nhân với quê hương, dòng tộc còn giúp cố kết tình cảm của con cháu trong dòng họ sinh sống trên khắp mọi miền tổ quốc.

Các vị tiên tổ của dòng họ Thái Khắc đại tôn, nhiều người có công với dân, với nước, không chỉ được nhà nước phong kiến ghi nhận mà còn được nhân dân tôn kính. Dù ở thời kỳ nào, những người có công với dân, với nước cũng luôn được nhân dân ngưỡng vọng, tôn thờ. Điều đó thể hiện được đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của người Việt nói chung và người dân xứ Nghệ nói riêng.

Ngoài ra, chính việc lưu truyền, gìn giữ những nghi thức tế lễ từ đời này qua đời khác đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên nét văn hóa tâm linh mang đậm bản sắc của một vùng quê xứ Nghệ, cũng như góp phần bảo lưu những giá trị văn hóa phi vật thể mà cha ông đã dày công sáng tạo.

Đến với di tích, du khách được thắp nén tâm nhang, thành kính tưởng niệm các bậc tiền nhân đã có công lao với quê hương, đất nước. Đồng thời, chúng ta còn được thăm thú một vùng quê dân dã, yên bình, thơ mộng và cũng là dịp để mọi người thẩm nhận các giá trị văn hóa của một vùng đất địa linh.

Nhà thờ họ Thái Khắc nhìn từ phía trước vào.

2. Các nhân vật lịch sử:

2.1. Thuỷ tổ Thái Khắc Lãm

Vào năm 1592, kinh thành Thăng Long thất thủ, để tránh sự truy sát của vua Lê – chúa Trịnh, con cháu nhà Mạc chạy loạn khắp nơi. Một bộ phận chạy lên Cao Bằng, Lạng Sơn,... tiếp tục chống cự. Một bộ phận khác lưu tán, đổi họ thay tên ẩn mình lánh nạn. Mạc Phúc Bình là con trai thứ 16 của Mạc Phúc Nguyên đã đưa vợ là Trần Thị Diện cùng với 4 người con là Doãn Nguyên, Doãn Hiệp, Doãn Lãm, Doãn Lai  về thôn Trung Phường, xã Quan Trung, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu để tránh họa hoạn, mai danh ẩn tính. Tại đây, ông đã đổi họ cho các con thành họ Thái [1] . Doãn Lãm được cha đổi tên thành Thái Khắc Lãm. Một thời gian sau, ông Mạc Phúc Bình mất, các con của ông đã chia nhau tìm đất để sinh cơ. Ông Thái Khắc Lãm chọn làng Hội Tâm,  xã An Lăng, tổng Vân Tụ, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu ( nay là làng Hội Tâm, xã Thịnh Sơn, huyện Đô Lương ) để sinh cơ lập nghiệp và lập nên dòng họ Thái Khắc tại đây.

Tính đến nay, dòng họ đã trải qua 19 đời, lập thành 3 đại chi, 8 trung chi và 24 tiểu chi.

Theo gia phả họ Thái Khắc đại tôn, làng Hội Tâm, xã Thịnh Sơn cho biết thủy tổ của dòng họ là ông Thái Khắc Lãm. Ông sinh vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVI, là con trai thứ 3 của ông Mạc Phúc Bình và bà Trần Thị Diện, và là cháu nội Tuyên Tông Duệ hoàng đế Mạc Phúc Nguyên.

Sau khi nhà Mạc thất thủ, Doãn Lãm được cha mẹ đưa đến vùng đất thôn Trung Phường, xã Quan Trung, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu để lánh nạn và đổi họ cho ông thành Thái Khắc Lãm. Khoảng đầu thế kỷ XVII, Thái Khắc Lãm di dời lên làng Hội Tâm,  xã An Lăng, tổng Vân Tụ, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu ( nay là làng Hội Tâm, xã Thịnh Sơn, huyện Đô Lương ) để ổn định cuộc sống lâu dài.

Lúc bấy giờ, vùng đất này còn hoang vu, cây cối rậm rạp, đất đai cằn cỗi, dân cư thưa thớt. Ông đã cùng với các dòng họ Nguyễn, họ Lê khai hoang mở rộng đất đai để canh tác. Tại đây, ông đã lập gia đình cùng với bà Thái Thị Đại. Với đức tính cần cù, chịu khó ông đã tìm hiểu phong thổ, khí hậu, hướng dẫn bà con khai phá đất đai, trồng lúa và hoa màu. Chẳng bao lâu vùng đất này trở nên trù phú, dân cư đông đúc.

Ông bà sinh được 4 người con, và cả 4 người đều sinh cơ lập nghiệp tại làng Hội Tâm. Dần dần con cháu phát triển, hình thành nên dòng họ Thái Khắc làng Hội Tâm, xã An Lăng, tổng Vân Tụ, huyện Đông Thành. Ông mất năm nào không rõ, mộ táng tại Bàu Vạn (nay là Đập Đinh làng Yên Thế, xã Thịnh Sơn).

2.2. Thí tướng sĩ lang Thái Khắc Oánh (Đời thứ 7)

Theo sắc phong, các tài liệu khác lưu tại di tích cho biết: Thái Khắc Oánh là hậu duệ  đời thứ 7 của dòng họ Thái Khắc. Ông  sinh  vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII, tại làng Hội Tâm, xã An Lăng, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu. Ông là con trai thứ 4 của ông Thái Khắc Viện và bà Thái Thị Trân. Thuở nhỏ, Thái Khắc Oánh đã nổi tiếng là người thông minh, ham mê võ nghệ. Năm 18 tuổi, ông gia nhập đội Ưu binh của vua Lê – chúa Trịnh.

Năm Giáp Ngọ (1774) , chúa Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm huy động đại quân, giao cho Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc làm Bình Nam Thượng tướng quân, chỉ huy tiến vào Đàng Trong đánh các chúa Nguyễn. Thái Khắc Oánh cũng tham gia trong cuộc Nam tiến này. Trong quá trình tham chiến, ông cùng các tướng sĩ khác dưới sự chỉ huy của Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc đã tả xung hữu đột, lập được nhiều công lớn, đánh bật chúa Nguyễn ra khỏi Thuận Hóa [1] .

Năm 1782, Trịnh Sâm mất, Trịnh Cán lên ngôi chúa, Tuyên phi Đặng Thị Huệ cùng với bọn loạn thần trong triều chuyên quyền, ức hiếp dân lành, làm cho triều đình ngày càng suy vi, nhân dân ly tán. Bất bình trước sự bất công đó, hưởng ứng lời kêu gọi của Nguyễn Bằng (người Nghệ An), người đứng đầu Tả tiệp cơ, ngày 24 tháng 10 năm Nhâm Dần (1782), Thái Khắc Oánh cùng với quân ưu binh kéo đến bao vây phủ chúa, phế bỏ ngôi chúa của Trịnh Cán, lập Trịnh Khải lên làm chúa [2] . Bằng cấp năm Cảnh Hưng thứ 45 ( 1785 ) chép về việc này như sau:

“Thái Khắc Oánh, người thôn Hội Tâm, xã An Lăng, huyện Đông Thành. Là Ưu binh ở cơ Tả thắng....có công tôn phù”.

Không những có công đưa Trịnh Khải lên ngôi Chúa, Thái Khắc Oánh và lính ưu binh c̣òn có công tôn pḥò Thái tử nhà Lê. Vốn trước đây, sau khi bức hại Thái tử Lê Duy Vĩ, chúa Trịnh Sâm đã nhốt ba người con của Thái tử là Lê Duy Khiêm (sau này là vua Lê Chiêu Thống), Lê Duy Trù và Lê Duy Chi vào ngục. Sau khi giết chết Quận Huy Hoàng Đình Bảo (phe cánh của Đặng Thị Huệ và Trịnh Cán), đội ưu binh đã giải thoát ba con của Lê Duy Vĩ ra khỏi lao ngục và tôn pḥò con trưởng của Lê Duy Vĩ là Lê Duy Khiêm lên làm Thái tử (1783) [3] .

Thái Khắc Oánh là một người thông minh, nhanh nhẹn, làm việc nghiêm túc có trách nhiệm nên ông được cân nhắc lên chức “Thí tướng sĩ” [4] . Nói về việc này, bằng cấp năm Cảnh Hưng thứ 45 chép:

“Ngày 16 tháng 6 năm Cảnh Hưng thứ 45 (1785), các quan ở nha môn Ti lễ giám kính vâng chỉ chuẩn cho bản bộ về việc vâng chuyển Thái Khắc Oánh làm Thí tướng sĩ lang, Tri sự ở điện Thừa Hoa”.

Cả cuộc đời ông cống hiến cho triều đình. Khi tuổi già, ông trở về quê nhà và sống một cuộc đời thanh bạch, chan hòa với bà con, làng xóm. Ông mất không rõ năm, mộ táng tại nghĩa trang Khe Hạ, thôn Yên Thế, xã Thịnh Sơn.

2.3. Tráng tiết tướng quân Thái Khắc Mao (đời thứ 8)

Thái Khắc Mao, con trai thứ 8 của ông Thái Khắc Oánh, sinh vào giữa thế kỷ XVIII, là hậu duệ đời thứ 8 của dòng họ Thái Khắc. Nối tiếp cuộc đời binh nghiệp của cha, năm 18 tuổi, ông tham gia vào đội quân của vua Lê – chúa Trịnh, thuộc biên chế của đạo quân Thanh Hoa do Nguyễn Phan (còn gọi là Phan Phái hầu) làm Chính đốc [5] . Theo sắc phong năm Cảnh Hưng thứ 33 chép về sự kiện này như sau: “Bản thân đi theo các quan Chính đốc lãnh đạo Thanh Hoa là Phan Phái hầu, quan Tán lý Dĩnh Thành bá, quan Giám quân là Trần Văn Trứ, quan Tham mưu là Mai Thế Uông đánh dẹp giặc cỏ ”.

Khi gia nhập vào đội quân của Chính đốc Nguyễn Phan, Thái Khắc Mao đã không quản gian khổ ngày đêm thao luyện cùng các tướng sĩ. Trong quá trình tập luyện, ông luôn tỏ rõ là người thông minh, chịu khó, nhanh nhẹn nên được quan Chính đốc khen ngợi, ưu ái. Vì thế mỗi lần đi đánh trận, ông được giao giữ mũi tiên phong và trận đánh nào cũng dành được thắng lợi vì thế ông được phong làm Đội trưởng đội Ưu binh ở cơ Hữu thắng [6]

Năm Kỷ Sửu (1769), sau khi dẹp yên mười châu ở Hưng Hóa, chúa Trịnh bàn đánh Trấn Ninh [7] . Các quan trong ngoài đều cho là khó, vì chỗ ấy vừa hiểm trở vừa xa xăm, nhưng chúa đã quyết và sai Bùi Thế Đạt làm Thống lãnh Nghệ An, Nguyễn Phan làm Chính đốc Thanh Hoa, Hoàng Đình Thể làm Đốc lãnh Hưng Hóa, điều động binh mã ba đạo đi đánh Trấn Ninh.  Đến tháng 7, Đạo quân của Chính đốc Nguyễn Phan cùng với đạo quân của Đoan quận công Bùi Thế Đạt nhất tề tiến vào Trấn Ninh. Tháng 9, đến phía Nam sông (Cửa Rào), quân của Nguyễn Phan cùng với đội quân Nghệ An hợp lại, tìm đường  tiến vào sào huyệt của Lê Duy Mật.

Trong cuộc xuất chinh tấn công vào sào huyệt của Lê Duy Mật, Thái Khắc Mao tiếp tục được quan Chính đốc cho tham gia. Sắc phong năm Cảnh Hưng thứ 33 chép: “Lại nhiều lần theo đánh dẹp Trấn Ninh” . Trận đánh này, ông đã rất gan dạ, dũng cảm cùng với quân sĩ mở đường cho đại quân của quân nhà Lê tiến vào thành Trình Quang. Bởi theo “ Lịch triều hiến chương loại chí ” của Phan Huy Chú: Trình Quang ở vị trí hai bên là khe suối, bốn mặt là núi, xung quanh có 16 đồn lũy với đầy đủ thành cao, hào sâu, đài quan sát và điếm canh từ xa để bảo vệ một cách cẩn thận. “Quân chiến ước 3000 người, voi hơn 100 con, ngựa hơn 300 con, súng lớn nhỏ hàng nghìn khẩu, diêm tiêu, lưu hoàng, thuốc đạn không kể xiết…” [8] . Vì vậy, đại quân của tướng Nguyễn Phan phải rất vất vả khi vây đánh thành Trình Quang. Lúc này, với vai trò là lực lượng mở đường, Thái Khắc Mao đã cùng toàn đội tiên phong xông thẳng vào trận địa để đánh phủ đầu buộc nghĩa quân Lê Duy Mật phải cố thủ bên trong, không dám hành động. Trước tình hình đó, quân nhà Lê đã dùng mưu mua chuộc mẹ con Lại Thế Thiều [9] làm nội ứng [10] rồi đưa quân vào thẳng sào huyệt của đối phương.  Sau mấy tháng bao vây, đánh gấp, mùa xuân năm 1770, sào huyệt của Lê Duy Mật ở Trình Quang bị vỡ, bình định xong Trấn Ninh. Lúc khải hoàn, bàn đến công lao của quân sĩ, Thái Khắc Mao được triều đình ban sắc khen ngợi và phong cho chức Bách hộ, xứng đáng với danh hiệu: “ Phấn lực tướng quân, hiệu lệnh ti tráng sĩ, Bách hộ, hạ trật”.

(Xem toàn bộ sắc phong ở phần phụ lục)

Tình hình Đàng Ngoài tạm ổn định, chúa Trịnh lại nung nấu ý định Nam tiến. Thời cơ đã đến khi “triều đình Đàng Trong có Trương Phúc Loan là ngoại thích của chúa Nguyễn chuyên quyền, tính tham lam bạo ngược gây nên loạn Tây Sơn” [11] .

Năm Cảnh Hưng thứ 35 (1774), Tĩnh vương Trịnh Sâm đích thân đem đại quân thảo phạt Đàng Trong, sai Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc tiến quân vào . Hoàng Ngũ Phúc được phong chức Thượng tướng quân, thống lĩnh quan quân 33 doanh, Bùi Thế Đạt là phó tướng và Nguyễn Nghiễm được sung chức Tả tướng, cùng quân thủy bộ các đạo Thanh Hoa, Nghệ An và vùng đông nam với quân số hơn ba vạn quân. Quân nhà Lê từ  Nghệ An tiến thẳng vào Bắc Bố Chính rồi tiếp tục tiến sát tới sông Gianh. Tháng 10, Đoan quận công Bùi Thế Đạt cho quân vượt sông, hạ được Lũy Thầy. Thái Khắc Mao lại được sung vào lực lượng tiên phong trong cuộc Nam tiến lần này. Theo sắc phong năm Cảnh Hưng thứ 44 (1784), nói về sự việc này như sau: “Phấn lực tướng quân, hiệu lệnh tư tráng sĩ, Bách hộ, Hạ trật Thái Khắc Mao là ưu binh ở cơ Hữu thắng, vâng mệnh hộ giá bình dẹp ở Nam hà, vâng nhận chức Phó đề lãnh, rất có công lao”.

Trong trận đánh này 2 cha con Thái Khắc Oánh và Thái Khắc Mao gặp nhau. Đây là một điều hết sức bất ngờ và hạnh phúc nhưng cả 2 cha con đều cố nén niềm xúc động để tập trung tinh thần cho trận chiến. Bởi ai cũng hiểu được trách nhiệm lớn lao của mình đang làm.

Quân đội nhà Lê khi vượt sông Gianh tiến vào đánh Trường Thành Nhật Lệ [12] đã cho một cánh quân ngầm tiến sát đến doanh lũy, số còn lại đã cho tập trung dàn trận nghiêm chỉnh theo hàng lối để chuẩn bị đánh thẳng vào trận địa của quân nhà Nguyễn. Các đội kỵ binh, tượng binh, bộ binh chỉnh tề tiền hô hậu ủng dương uy thanh thế. Trước thanh thế hùng hậu của quân đội nhà Lê, lại có tướng Đàng Trong làm nội ứng mở cửa thành nên các đạo quân nhanh chóng chiếm lĩnh và kiểm soát toàn bộ lũy. Sau khi phá được Trường Thành Nhật Lệ, quân nhà Lê nhanh chóng chiếm được thành Quảng Bình. Từ lũy Đồng Hồi (Đồng Hới), quân nhà Lê tiến vào, các tướng sĩ nhất tề tiến lên, đánh  trận nào thắng trận đó. Trong mỗi trận chiến, Thái Khắc Mao luôn ở mũi tiên phong mở đường. Những chiến thắng trong màn phủ đầu đã tăng thêm sĩ khí cho quân nhà Lê, thế quân như chẻ tre. Được đà thắng lợi, quân nhà Lê nhanh chóng tiến đánh Phú Xuân – kinh đô của xứ Đàng Trong. Nhà Nguyễn tuy đã cử tướng điều quân chống giữ nhưng vẫn không ngăn chặn được những đòn tấn công như vũ bão của quân nhà Lê. Những cánh quân của chúa Nguyễn đều bị áp đảo và nhanh chóng tan vỡ. Chẳng bao lâu, Phú Xuân thất thủ, quân nhà Lê vào Thuận Hóa, Quảng Nam rồi lệnh đặt tam ti cai trị xứ ấy. Những thắng lợi của quân nhà Lê là nhờ sự đồng tâm hiệp lực của toàn thể tướng sĩ, sự mưu trí, quyền biến của những người chỉ huy, sự dũng cảm, thi đua lập công của quân sĩ, trong đó có công lao của cha con Thái Khắc Mao.

Mười mấy năm trời phục vụ triều Lê – Trịnh, Thái Khắc Mao vào sinh ra tử lập            biết bao chiến công, giúp nước an dân nên năm Cảnh Hưng thứ 44 ông đã được triều đình ban sắc khen thưởng và phong chức từ Bách hộ lên Thiên hộ, xứng đáng với danh hiệu: Tráng tiết tướng quân, hiệu Lệnh tư tráng sĩ, Thiên hộ, Thiết kỵ úy, Trung liệt [13] . Khi tuổi cao, ông xin về hưu quan và sống một cuộc đời thanh bạch cùng con cháu, dân làng. Ông giành hết số tiền khi còn làm quan để giúp đỡ những người nghèo khổ trong làng. Vì thế ông được bà con, dân làng rất kính trọng và quý mến. Ông mất không rõ năm, mộ táng tại nghĩa trang Khe Hạ, thôn Yên Thế, xã Thịnh Sơn.

2.4 . Thái Khắc Quynh (Đời thứ 15)

Thái Khắc Quynh sinh năm 1909, tại làng Hội Tâm, xã An Lăng, huyện Lương Sơn, phủ Anh Sơn trong một gia đình thuần nông. Đó là một làng quê nghèo khó còn được lưu truyền trong câu ca:

“Em về trang trại mần chi

Ruộng nương thì ít rú ri thì nhiều

Hoàn cảnh khó khăn cơ cực ấy đã rèn đúc nên bản tính của người dân nơi đây, cần cù, chịu thương, chịu khó, ý chí vươn lên thoát cảnh khốn cùng. Ông lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, hằng ngày chứng kiến nỗi cùng cực của nhân dân dưới cảnh “một cổ hai tròng”, vì thế, ông luôn nung nấu ý chí lớn lên đánh giặc cứu nước, giải phóng dân tộc.

Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời lãnh đạo nhân dân ta đứng lên đấu tranh chống Thực dân phong kiến. Từ khi có đảng lãnh đạo, phong trào đấu tranh chống giặc nổ ra nhiều nơi và ngày càng mạnh mẽ. Trước tình hình đó, tháng 9 năm 1930, Tổng ủy Đệ Tứ phụ trách việc xây dựng cơ sở Đảng trong 2 tổng Thuần Trung và Yên Lăng được hình thành.

Cuối tháng 10 năm 1930, đồng chí  Nguyễn Tất Ngạn, ủy viên Tổng ủy đệ Tứ đã về Hội Tâm chuẩn bị cho việc thành lập chi bộ Đảng. Chi bộ Hội Tâm ra đời, sau đó các thôn bộ nông, xã bộ nông được thành lập. Lúc này Thái Khắc Quynh tham gia nhiệt tình trong Nông hội đỏ, tuyên truyền, giác ngộ nhân dân đấu tranh chống lại bọn cường hào, ác bá. Vì thế đến tháng 11 năm 1930, ông Thái Khắc Quynh được đứng trong hàng ngũ của Đảng và tham gia hoạt động trong chi bộ Hội Tâm. Chi bộ đảng Hội Tâm, dưới sự chỉ đạo của Tổng ủy Đệ Tứ  và sự  hoạt động tích cực của các đảng viên trong đó có Thái Khắc Quynh đã  tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lê Nin,  đường lối cách mạng của Đảng, vận động quần chúng đấu tranh chống ách áp bức dã man của Thực dân Pháp và bọn quan lại phong kiến như: chống sưu cao, thuế nặng, chống phu đài tạp dịch, chống bắt thanh niên đi lính cho Pháp, tham gia biểu tình giành chính quyền, ủng hộ Xô Viết công nông…Khắp các làng xóm sục sôi không khí căm thù giặc, các cuộc mít tinh, biểu tình nổ ra liên tiếp, truyền đơn, cờ đỏ búa liềm của Đảng xuất hiện nhiều nơi trong làng, trong tổng. Đặc biệt sau cuộc biểu tình ngày 14 tháng 12 năm 1930 của nhân dân làng Hội Tâm, làng Kim Liên và làng Vạn Phúc đã khiến cho “bộ máy cai trị ở các làng bị tê liệt. Nội bộ bọn hào lý đứa thì hoang mang, sợ hãi, đứa thì nằm im chờ thời” [14]

Tuy nhiên, sau những thắng lợi bước đầu của chính quyền cách mạng, bọn Thực dân Pháp ra tay đàn áp dã man các phong trào nổi dậy đấu tranh của công nhân, nông dân, lùng sục, bắt bớ các Đảng viên cộng sản. Trước tình hình đó, ngày mùng 1 tháng 5 năm 1931, Chi bộ Đảng Hội Tâm họp tại nhà thờ họ Thái Khắc đại tôn để tìm cách đấu tranh chống lại giặc. Song bọn giặc rất nham hiểm, chúng đã bố trí bọn tay sai ngày đêm rình rập theo dõi các đảng viên. Ngày mùng 8 tháng 5 năm 1931, chúng tiếp tục ra tay đàn áp, bắt bớ các đảng viên: “Bọn Thực dân Pháp và tay sai kéo quân về làng Hội Tâm bắt bớ, bắn giết. Chúng lùng sục bắt bớ cán bộ, đảng viên. Chúng bắn chết anh Đậu Văn Lân, Thái Khắc Quynh, tại ngã ba xóm Đoài  để đe dọa quần chúng. Chúng bắt anh Thái Khắc Lâm, Thái Khắc Thị, Thái Văn Truyền đem về giam ở phủ” [15] .

Những người con ưu tú của làng Hội Tâm đã hi sinh rất dũng cảm để bảo vệ quê hương, đất nước trong đó có  Thái Khắc Quynh. Anh đã ngã xuống vì sự nghiệp cách mạng cao cả. Đó là sự mất mát lớn của gia đình, của dân làng và cao hơn nữa là của Đảng. Song sự hi sinh của anh và các đồng chí của anh lại càng nung nấu thêm lòng căm thù giặc, tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân làng Hội Tâm.

Tưởng nhớ đồng chí Thái Khắc Quynh, Đậu Văn Lân, năm 2003, Đảng bộ và nhân dân xã Thịnh Sơn đã dựng bia tưởng niệm các đồng chí ngay tại nơi ngày xưa bị bắn. Điều đó thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của nhân dân xã nhà đối với người con ưu tú đã hi sinh vì độc lập tự do của nhân dân, đất nước.

Ngoài các nhân vật tiêu biểu nêu trên, dòng họ Thái Khắc đại tôn còn có nhiều người  đóng góp cho dân, cho nước như:

- Ông Thái Khắc Thống đi lính thời Lê Trung hưng, được Thăng thụ Chánh đội trưởng Hàn kỳ hầu.

- Ông Thái Khắc Thái, làm Chánh đội trưởng thăng thù trì uy tướng quân đời nhà Lê

- Ông Thái Khắc Vựng làm quan thời Nguyễn, được phong hàm tòng bát phẩm. Hiện nay tại nhà thờ còn lưu giữ các bằng cấp triều Nguyễn cấp cho ông.

- Ông Thái Khắc Thị liệt sĩ chống Pháp.

Tiếp nối truyền thống tốt đẹp của tiền nhân, hiện nay, con cháu của dòng họ Thái Khắc đều cố gắng học tập và tu dưỡng, cần cù lao động, tiếp tục có nhiều cống hiến cho xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, văn hóa. Nhiều người đã đạt học vị tiến sỹ, thạc sỹ, cử nhân, kỹ sư, giám đốc doanh nghiệp, giáo viên giỏi trong các trường đại học, phổ thông… Đặc biệt, trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc dòng họ  đã có hàng chục liệt sỹ, 3 bà mẹ Việt Nam anh hùng, các lão thành cách mạng và hàng chục thương bệnh binh đã hy sinh xương máu của mình vì độc lập và thống nhất của đất nước. Có thể nói, dòng họ Thái Khắc là một dòng họ có truyền thống cách mạng. thời kỳ nào họ cũng có những ngời con ưu tú cống hiến, hy sinh vì quê hương đất nước, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc nên dòng họ được nhà nước 2 lần phong tặng danh hiệu Huy chương kháng chiến, được Chủ tịch UBND huyện cấp bằng công nhận dòng họ văn hóa năm 2000.

Nguyễn Lệ Thu



    DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ

    DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ

    THƯ VIỆN HÌNH ẢNH

    SỐ LƯỢT TRUY CẬP

     

    BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH

    VIDEO TUYÊN TRUYỀN