TỔNG BÍ THƯ LÊ HỒNG PHONG – NGƯỜI CỘNG SẢN KIÊN CƯỜNG, NHÀ LÃNH ĐẠO TÀI NĂNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM .
Đồng chí Lê Hồng Phong tên thật là Lê Huy Doãn, sinh ngày 06 tháng 9 năm 1902, tại làng Đông Thôn, tổng Thông Lạng, phủ Hưng Nguyên (nay là xóm Hồng Phong, xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An), một vùng đất giàu truyền thống cách mạng.
Đồng chí sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân pháp xâm lược, cuộc sống của nhân dân vô cùng cực khổ bởi ách thống trị, áp bức, bóc lột của chế độ phong kiến, thực dân. Chứng kiến những cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh yêu nước của đồng bào ta bị kẻ thù đàn áp đẫm máu, Lê Hồng Phong sớm nuôi trong mình tư tưởng yêu nước và ý chí làm cách mạng cứu nước, cứu dân. Sau khi học hết bậc Sơ học yếu lược, thì người cha kính yêu của anh - trụ cột gia đình đột ngộ qua đời. Người mẹ đau yếu, các anh chị dù yên bề gia thất song sống trong cảnh nghèo khó, thanh bạch. Không có tiền chu cất học tiếp, anh quyết định bỏ học và xuống tỉnh lị để đi làm thuê vừa gánh vác đỡ đần giúp mẹ vừa mong học thêm tiếng Pháp, Lê Hồng Phong rời quê ra thành phố Vinh làm đủ thứ nghề như thư ký, đi buôn rồi làm công nhân tại nhà máy Diêm Bến Thuỷ. Trong thân phận người làm thuê và được tận mắt chứng kiến cuộc sống lầm than của những người lao động, Lê Hồng Phong đã vận động công nhân đứng lên đấu tranh. Sau sự kiện này, Lê Hồng Phong bị đuổi việc do bị tố giác kích động công nhân biểu tình. Từ đây, đồng chí bôn ba khắp nơi tìm đường cứu nước, cứu dân như ở Thái Lan, Trung Quốc, Liên Xô…. Ở nước ngoài, đồng chí Lê Hồng Phong đã được tham dự lớp chính trị do Nguyễn Ái Quốc phụ trách, trở thành một trong những cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam được trang bị lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Bên cạnh đó, đồng chí còn tìm cách gây dựng lại hệ thống tổ chức của Đảng; mở lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ, gây dựng cơ sở cách mạng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh biên giới phía Bắc. Cũng chính trong thời gian này ở trong nước, cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) thất bại, địch khủng bố dã man, đẩy phong trào cách mạng Việt Nam vào giai đoạn vô cùng khó khăn. Hàng trăm, hàng ngàn cán bộ, đảng viên và chiến sĩ yêu nước bị bắn giết hoặc bị tù đầy, Các cơ sở đảng từ Trung ương đến địa phương bị tan vỡ. Nhiều cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng đã bị bắt hoặc bị sát hại. Trong bối cảnh đó, cuối năm 1931, đồng chí Lê Hồng Phong nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản trở về nước chỉ đạo việc tổ chức khôi phục và phát triển các cơ sở đảng, tiếp tục đưa phong trào cách mạng tiến lên. Để giải quyết vấn đề thiếu cán bộ, việc đầu tiên Lê Hồng Phong làm là mở lớp đào tạo cán bộ như lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã làm trước đây. Lê Hồng Phong quyết định chuyển về Long Châu (một thị trấn nhỏ sát biên giới Việt - Trung) và liên tục mở các lớp huấn luyện cho cán bộ từ trong nước sang học tập. Sau khi đào tạo, ngay lập tức, họ được đưa về nước hoạt động, nhờ thế mà các tổ chức đảng trong nước được khôi phục, nhất là các Đảng bộ của các tỉnh biên giới như Cao Bằng, Lạng Sơn và các đảng bộ của các thành phố lớn. Cuối năm 1932, đồng chí Lê Hồng Phong còn chỉ đạo thành lập một ban lãnh đạo lâm thời của Đảng. Ban lãnh đạo thống nhất chủ trương tuyên truyền, học tập và hành động theo nội dung của bản kế hoạch: “Chương trình hành động của Đảng” do Lê Hồng Phong tham gia soạn thảo đã được Quốc tế Cộng sản thông qua, đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi trong lúc cách mạng Việt Nam bị khủng bố trắng, giữa lúc Đảng đang gặp thoái trào, những tư tưởng dao động, cơ hội đang thừa cơ trỗi dậy. Chương trình hành động của Đảng như một luồng gió mới tiếp sức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng giữ được niềm tin vững chắc và tiền đồ cách mạng, đẩy lùi tư tưởng cầu an, hoang mang dao động, tạo điều kiện cho việc khôi phục nhanh chóng hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng của quần chúng ở trong nước. Chương trình hành động của Đảng do Lê Hồng Phong khởi thảo và công bố vào tháng 6 /1932 đã chỉ rõ phương hướng đấu tranh cách mạng giai đoạn mới, phân tích những tổn thất khó khăn của Đảng chỉ là tạm thời qua đó đẩy lùi tư tưởng hoang mang, dao động tạo điều kiện khôi phục nhanh chóng hệ thống tổ chức Đảng và phong trào quần chúng. Nhờ vậy mà nhiều tỉnh uỷ, thành uỷ lần lượt được khôi phục và lập lại.
Như vậy, cho đến cuối năm 1933, bằng năng lực, trí tuệ và quyết tâm phi thường, Lê Hồng Phong đã bước đầu hoàn thành trọng trách mà Quốc tế Cộng sản giao cho, xây dựng lại hệ thống tổ chức của Đảng trong cả nước, khôi phục các cơ sở cách mạng và khơi dậy niềm tin của quần chúng với Đảng, với cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Lê Hồng Phong, các tổ chức đảng trong nước dần dần hoạt động trở lại và ngày càng lớn mạnh, phong trào cách mạng hồi sinh. Lớn mạnh. Tháng 3-1934, Ban lãnh đạo của Đảng ở nước ngoài (còn gọi là ban chỉ huy ở ngoài của Đảng) được chính thức thành lập tại Macao, Trung Quốc. Ban chấp hành ở ngoài có chức năng như Ban chấp hành Trung ương lâm thời do đồng chí Lê Hồng Phong làm Bí thư . Dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành ở ngoài của Đảng, tình hình trong nước có nhiều chuyển biến tốt, từ ngày 16 đến 21-6-1934 tại Trung Quốc, Ban chấp hành ở ngoài của Đảng Cộng Sản Đông Dương tổ chức hội nghị với đại diện các tổ chức Đảng ở trong nước, để nhận định tình hình, đề ra chủ trương mới nhằm củng cố Đảng. Đầu năm 1935, Lê Hồng Phong dẫn đầu đoàn đại biểu của Đảng đi Mát-xcơ-va dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản. Cũng tại Đại hội này, Đảng ta được công nhận là chi bộ chính thức của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong (với bí danh Hải An), được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Khi đó, Đại hội Toàn quốc lần thứ I của Đảng đã thành công, đồng chí Lê Hồng Phong (được bầu vắng mặt) làm Tổng Bí thư của Đảng, điều đó một lần nữa khẳng định công lao và uy tín của đồng chí đối với việc hồi phục cơ quan lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương và đóng góp to lớn trong việc chuẩn bị Đại hội lần thứ nhất của Đảng. Và với cương vị Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong cùng với Trung ương Đảng đã triệu tập và chủ trì Hội nghị toàn quốc của Đảng (tháng 7-1936) tại Thượng Hải. Hội nghị đã quyết định chuyển hướng mục tiêu và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng, xác định rõ mục tiêu trực tiếp là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh đế quốc, đòi dân chủ, dân sinh và hoà bình. Kẻ thù chủ yếu trước mắt của nhân dân Đông Dương là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai. Theo đề nghị của Lê Hồng Phong, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương, đặt tiền đề cơ sở cho cao trào đấu tranh dân chủ diễn ra trong cả nước thời gian sau đó. Việc thành lập Ban Chỉ huy ở ngoài (vai trò như Ban Chấp hành Trung ương lâm thời) đã có tác động hết sức to lớn đối với phong trào cách mạng trong nước, trước hết là duy trì niềm tin của quần chúng đối với Đảng, đồng thời khẳng định sức sống mãnh liệt và vị trí lãnh đạo của Đảng, không một thế lực nào có thể dập tắt được. Với sự hoạt động tích cực của Ban Chỉ huy ở ngoài, trong đó phải kể đến những cống hiến to lớn, hoạt động không mệt mỏi của đồng chí Lê Hồng Phong đã góp phần quan trọng đưa Đảng ta trở lại vai trò lãnh đạo cách mạng, hệ thống tổ chức của Đảng từ cơ sở tới Trung ương đã dần dần được khôi phục tạo tiền đề quan trọng cho các bước phát triển của cao trào cách mạng cả nước.
Cuối năm 1937, đồng chí đã bí mật về Sài Gòn chợ lớn hoạt đồng, cùng với trung ương Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng trong cả nước, giữa lúc phong trào đang lên cao, thì ngày 22-6-1939, đồng chí Lê Hồng Phong bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn. Biết đồng chí là một cán bộ cáo cấp của Đảng, bọn mật thám dùng mọi thủ đoạn tra tấn dã man; dụ dỗ, lừa phỉnh, nhưng chúng không thể lay chuyển được tinh thần và ý chí của người cộng sản kiên cường. Không đủ chứng cớ để buộc tội, toà án của đế quốc Pháp đành kết án đồng chí 6 tháng tù giam và 3 năm quản thúc tại quê nhà ở Nghệ An. Mặc dầu bị quản thúc, theo dõi chặt chẽ, đồng chí vẫn dành thời gian viết báo, bí mật gửi cho các tờ báo của Đảng như tờ Dân chúng, Đông Phương tạp chí… thể hiện tinh thần chiến đấu ngoan cường của người cách mạng kiên trung. Thực dân Pháp rất sợ người lãnh tụ cộng sản mà chúng gọi là “tên phiến loạn nguy hiểm” nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, dù đang trong thời gian quản thúc tại quê, nhưng mật thám Nam Kỳ vẫn ra Nghệ An bắt Lê Hồng Phong vào ngày 20 tháng 1 năm 1940 và áp giải vào giam giữ tại Sài Gòn. Gần một năm trời bị tra tấn, hành hạ, kẻ địch tìm mọi cách để khép đồng chí vào tội tử hình nhưng không đủ chứng cứ. Chúng dở đủ mọi thủ đoạn, kể cả dùng đòn tâm lý hòng lung lạc tinh thần của đồng chí. Biết đồng chí Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai là vợ chồng, có con nhỏ Hồng Minh mới được mấy tháng, chúng đưa Nguyễn Thị Minh Khai đến gặp Lê Hồng Phong, hy vọng hai người sẽ nhận nhau, qua đó chúng có cớ khép tội đồng chí dính líu tới “âm mưu lật đổ chính phủ Nam Kỳ”. Dù lâu ngày không được gặp nhau, nay gặp lại trong cảnh tù đày, sống chết chia ly trong gang tấc, không biết thế nào, lòng đầy thương cảm, nhưng đồng chí vẫn kìm nén tình cảm riêng, kiên quyết phủ nhận mọi chứng cứ của kẻ thù đưa ra làm thất bại âm mưu của chúng. Mặc dù vậy, thực dân Pháp vẫn buộc tội đồng chí phải “chịu trách nhiệm tinh thần” cho cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, kết án 5 năm tù giam và 10 năm quản thúc đày ra Côn Đảo. Trong những ngày bị biệt giam trong hầm đá, hoặc trong Banh II, nơi giam giữ tù cộng sản, kẻ thù luôn tìm cách đánh, hành hạ, tra tấn, đánh đập dã man đồng chí Lê Hồng Phong, làm nhụt tinh thần, ý chí của người lãnh đạo công sản. Có lần đồng chí vừa bưng bát cơm lên ăn, thì bọn cai ngục xông vào đánh túi bụi. Bát cơm của đồng chí bị nhuộm đỏ do máu chảy ra từ đầu, từ mặt rớt vào, nhưng đồng chí vẫn thản nhiên, tiếp tục ngồi ăn “bát cơm chan máu”, với quyết tâm phải sống để còn sống còn chiến đấu. Những trận đòn thù tàn ác, dã man, liên tục đã làm Lê Hồng Phong dần dần kiệt sức, đồng chí đã vĩnh biệt anh em, đồng chí vào trưa ngày 06-9-1942.
Đồng chí Lê Hồng Phong hy sinh khi mới 40 tuổi đời, với hơn 20 năm liên tục hoạt động, cống hiến cho Đảng, cho cách mạng. Trước lúc đi xa, đồng chí Lê Hồng Phong còn căn dặn: “Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin thắng lợi vẻ vang của cách mạng”. Đó là lời chào, lời nhắn nhủ của người cộng sản bất tử Lê Hồng Phong với anh em, đồng chí trước khi về cõi vĩnh hằng. Cho đến giờ phút cuối cùng, đồng chí vẫn tỏ rõ khí phách hiên ngang, ý chí kiên cường, bất khuất. Đồng chí là người chiến sỹ cộng sản tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Hiện nay mộ của đồng chí nằm tại nghĩa trang Hàng Dương, huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
LÊ VINH
QUY TRÌNH VỀ DI TÍCH DANH THẮNG
- 115/2020/NĐ-CP Quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức
- 19/2020/QĐ-UBND QUYẾT ĐỊNH Ban hành Quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Nghệ An
- 15/2019/TT-BVHTTDL THÔNG TƯ Quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích
- Số: 166/2018/NĐ-CP NGHỊ ĐỊNH Quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh
- 110/2018/NĐ-CP Quy định về quản lý và tổ chức lễ hội